Lịch sử Phần_mềm_tự_do_nguồn_mở

Sự ra đời của FOSS:

Trong những năm 1950 đến những năm 1980, người dùng máy tính thường có mã nguồn cho tất cả các chương trình họ đã sử dụng, quyền hạn và khả năng sửa đổi nó để sử dụng cho riêng họ. Phần mềm, bao gồm mã nguồn, thường được chia sẻ bởi các cá nhân sử dụng máy tính, thường là phần mềm phạm vi công cộng[10]. Hầu hết các công ty đều có mô hình kinh doanh dựa trên doanh số bán phần cứng và các phần mềm được cung cấp hoặc đóng gói chung với phần cứng một cách miễn phí[11].

Đến cuối những năm 1960, mô hình kinh doanh thịnh hành xung quanh phần mềm đã thay đổi. Ngành công nghiệp phần mềm phát triển và cạnh tranh với các sản phẩm phần mềm đi kèm của nhà sản xuất phần cứng; thay vì tài trợ cho việc phát triển phần mềm từ doanh thu phần cứng, các công ty mới này đã bán phần mềm trực tiếp. Các máy tính cho thuê thì cần các phần mềm hỗ trợ trong khi không cung cấp doanh thu cho phần mềm đấy và một số khách hàng có khả năng đáp ứng về nhu cầu phần mềm của họ thì lại không muốn tốn tiền để mua phần cứng. Trong bản cáo buộc Mỹ với IBM nộp ngày 17 tháng 1 năm 1969, chính phủ Mỹ buộc tội rằng việc cho phần mềm đi kèm là chống cạnh tranh[12]. Mặc dù một số phần mềm vẫn đang được cung cấp miễn phí và không có giấy phép hạn chế, số lượng phần mềm có phí với giấy phép hạn chế ngày càng tăng. Vào những năm 1970 và đầu những năm 1980, một số bộ phận của ngành công nghiệp phần mềm bắt đầu sử dụng các biện pháp kỹ thuật (như chỉ phân phối các bản sao nhị phân của chương trình máy tính) để ngăn người dùng máy tính có thể sử dụng các kỹ thuật đảo ngược để nghiên cứu và tùy chỉnh phần mềm mà họ đã trả tiền. Năm 1980, luật bản quyền được mở rộng cho các phần mềm máy tính ở Hoa Kỳ[13], trước đây, các phần mềm được xem như là những thứ không có bản quyền như ý tưởng, thủ tục, phương pháp, hệ thống và quy trình[14][15].

Ban đầu, phần mềm nguồn đóng không phổ biến cho đến giữa những năm 1970 đến những năm 1980, khi IBM thực hiện chính sách chỉ phân phối mã đối tượng, không còn phân phối mã nguồn vào năm 1983[16][17].

Vào năm 1983, Richard Stallman, một thành viên lâu năm của cộng đồng hacker của phòng thí nghiệm khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo MIT, công bố dự án GNU, nói rằng ông đã trở nên thất vọng với những tác động của sự thay đổi trong văn hóa của ngành công nghiệp máy tính và người dùng của nó[18]. Sự phát triển phần mềm cho hệ điều hành GNU bắt đầu vào tháng 1 năm 1984, và Quỹ Phần mềm Tự do (FSF) được thành lập vào tháng 10 năm 1985. Một bài viết phác thảo dự án và các mục tiêu của nó đã được xuất bản vào tháng 3 năm 1985 với tiêu đề Tuyên ngôn GNU. Bản tuyên ngôn bao gồm giải thích quan trọng của triết lý GNU, định nghĩa phần mềm tự do và ý tưởng copyleft. Quỹ Phần mềm Tự do đưa ra quan điểm rằng vấn đề cơ bản phần mềm tự do giải quyết là một vấn đề đạo đức - để đảm bảo người dùng phần mềm có thể thực hiện cái mà họ gọi là "Bốn quyền Tự do thiết yếu"[1].

Hạt nhân Linux, do Linus Torvalds tạo ra, được phát hành dưới dạng mã nguồn có thể sửa đổi tự do vào năm 1991. Ban đầu, Linux không được phát hành theo giấy phép phần mềm nguồn mở hay phần mềm tự do. Tuy nhiên, với phiên bản 0.12 vào tháng 2 năm 1992, ông đã cấp lại dự án theo Giấy phép Công cộng GNU[19].

FreeBSDNetBSD (cả hai đều có nguồn gốc từ 386BSD) đã được phát hành dưới dạng phần mềm tự do khi vụ kiện giữa USL với BSDi được giải quyết tại toà án vào năm 1993. OpenBDS được phát triển đẻ nhánh từ NetBSD vào năm 1995. Cũng trong năm 1995, Máy chủ HTTP Apache, thường được gọi là Apache, đã được phát hành theo Giấy phép Apache 1.0.

Năm 1997, Eric Raymond đã xuất bản The Cathedral and the Bazaar, một bản tiểu luận phân tích phản ánh của cộng đồng hacker và các nguyên tắc phần mềm tự do. Bài tiểu luận đã nhận được sự chú ý đáng kể vào đầu năm 1998, và là một yếu tố thúc đẩy Tập đoàn Truyền thông Netscape phát hành bộ Internet Netsic Communicator nổi tiếng của họ dưới dạng phần mềm tự do. Mã nguồn này bây giờ được biết đến với cái tên Mozilla FirefoxThunderbird.

Hành động của Netscape đã thúc đẩy Raymond và những người khác xem xét cách mang ý tưởng phần mềm tự do của Quỹ phần mềm Tự do và nhận thấy lợi ích cho ngành công nghiệp thương mại phần mềm. Họ kết luận rằng hoạt động xã hội của Quỹ phần mềm Tự do không hấp dẫn các công ty như Netscape và tìm cách đổi thương hiệu cho phong trào phần mềm tự do để nhấn mạnh tiềm năng kinh doanh của việc chia sẻ và cộng tác trên mã nguồn phần mềm. Tên mới mà họ chọn là "nguồn mở" và Bruce Perens, nhà xuất bản Tim O'Reilly, Linus Torvalds và những người khác đã nhanh chóng ký hợp đồng đổi thương hiệu. Sáng kiến ​​nguồn mở được thành lập vào tháng 2 năm 1998 để khuyến khích việc sử dụng thuật ngữ mới và truyền bá các nguyên tắc nguồn mở[20].

Trong khi Sáng kiến ​​Nguồn mở tìm cách khuyến khích sử dụng thuật ngữ mới và truyền bá các nguyên tắc mà nó tuân thủ, các nhà cung cấp phần mềm thương mại thấy mình ngày càng bị đe dọa bởi khái niệm phần mềm phân phối tự do và phổ biến quyền truy cập vào mã nguồn của ứng dụng. Vào năm 2001, một giám đốc điều hành của Microsoft đã tuyên bố công khai rằng "Nguồn mở là một sự hủy hoại tài sản trí tuệ. Tôi không thể tưởng tượng điều gì đó có thể tồi tệ hơn điều này đối với kinh doanh phần mềm và kinh doanh tài sản trí tuệ."[21]. Quan điểm này hoàn toàn tóm tắt các phản ứng ban đầu của một số tập đoàn phần mềm đối với FOSS. Trong nhiều năm, FOSS đã đóng một vai trò thích hợp ở bên ngoài xu hướng phát triển phần mềm tư nhân. Tuy nhiên, sự thành công của các hệ điều hành FOSS như Linux, BSD và các công ty dựa trên FOSS như Red Hat, đã thay đổi thái độ của ngành công nghiệp phần mềm và đã có một sự thay đổi đáng kể trong triết lý của công ty liên quan đến việc phát triển phần mềm nguồn mở và tự do (FOSS).

Tại Việt Nam

Trong lịch sử phong trào phần mềm tự do nguồn mở đã có từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước với mốc đầu tiên là hội thảo quốc gia Phần mềm mã nguồn mở lần thứ nhất tháng 12 năm 2000. Ngay từ lúc đó, đã có những nhóm Phần mềm mã nguồn mở phát triển hệ điều hành Linux Việt của Vietkey, School Net, CMC… Và sự phát triển của PMNM cũng có những sự thăng trầm qua nhiều giai đoạn.[22]

Vào ngày 02 tháng 3 năm 2004, chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định số 235/QĐ-TTg, phê duyệt Dự án tổng thể “Ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở ở Việt nam giai đoạn 2004-2008”[23]. Tuy nhiên phần mềm nguồn mở tại Việt Nam không hề phát triển như mong muốn. Theo TS Nguyễn Hồng Quang - Chủ tịch CLB Phần mềm Tự do Nguồn mở Việt Nam, mọi việc không thể như mong muốn vì nhà nước thực ra cũng không có tiền và nhận thức về PMNM ở Việt Nam khi đó cũng chưa đủ độ chín.[22]

Năm 2004, nhóm Hanoi LUG (Linux User Group) đã được hình thành với hạt nhân là Viện Tin học Pháp ngữ (IFI) mà nay là Viện Quốc tế Pháp ngữ.[22]

Vào ngày 01 tháng 3 năm 2010, chính phủ Việt Nam đã ban hành Thông tư số 08/2010/TT-BGDĐT quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở trong các cơ sở giáo dục[24]. Trong thông tư, danh sách các phần mềm tự do mã nguồn mở được sử dụng trong các cơ sở giáo dục bao gồm:

  • Hệ điều hành GNU/Linux cho các máy chủ như Ubuntu, CentOS, Fedora Core, Debian.
  • Hệ điều hành của Linux dành cho máy bàn (PC) và máy tính xách tay (Laptop, Netbook...): Ubuntu, Fedora, Hacao (tiếng Việt, máy cấu hình thấp), PurpyDingo (Máy cấu hình thấp).
  • Bộ gõ tiếng Việt trong môi trường GNU/Linux: xvnkb, Scim.
  • Quản lý học tập điện tử e-Learning: Moodle, Dokeos.
  • Quản lý thư viện số: Greenstone của UNESCO, D-space.
  • Phần mềm thư viện: Emilda, phpmylibrary, Koha, OpenBiblio.
  • Quản lý mạng lớp học: Phần mềm Mythware, i-Talc của Intel.
  • Cổng thông tin điện tử: Liferay, Uportal, DotnetNuke, ExoPlatform.
  • Diễn đàn: phpBB, Jforum, mvnForum, SMF.
  • Quản lý nội dung CMS: Alfresco, PHP-Nuke, Nuke-Viet, Joomla, Drupal.
  • Vẽ bản đồ tư duy: FreeMind.
  • Xử lý âm thanh: Audacity.
  • Xử lý ảnh: PhotoScape, GIMP (thay thế Photoshop), Inkscape.
  • Tạo tệp văn bản PDF: PDFCreator.
  • Tạo tài liệu mở Wiki, cho phép người sử dụng có thể soạn thảo trực tiếp.
  • Database server: MySQL, PostgreSQL, Ingres, OpenDB.
  • Blog: WordPress, B2evolution.
  • e-Portfolio: Mahara.
  • Thư điện tử: Postfix, Zimbra, Sendmail.
  • Công cụ web: NVU, Bluefish (thay thế Frontpage, Dreamwear).
  • Nhắn tin, chat: Pidgin sử dụng cho nhiều mạng khác nhau Google, Yahoo, AIM, ICQ.
  • Phần mềm ngành xuất bản: Scribus (thay thế QuarkXpress, Indesgin).

Tuy nhiên, phần mềm mở vẫn chưa được phổ biến lắm ở trong giáo dục, đa số các trường ở máy mà học sinh sử dụng thì việc cài đặt và sử dụng phần mềm lậu vẫn còn tràn lan. Theo TS Nguyễn Hồng Quang - Chủ tịch CLB Phần mềm Tự do Nguồn mở Việt Nam, phần mềm nguồn mở trong giáo dục ở Việt Nam chưa phát triển được bao nhiêu. Nguyên nhân vì chưa có chính sách chung của Chính phủ về Phần mềm nguồn mở nên Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng chưa biết xem cần phải làm gì với phần mềm mã nguồn mở.[22]

Năm 2010, Công ty cổ phần phát triển nguồn mở Việt Nam (VINADES.,JSC hay công ty VINADES) chính thức được thành lập đầu 2010 tại Hà Nội, khi đó báo chí đã gọi VINADES.,JSC là "Công ty mã nguồn mở đầu tiên tại Việt Nam"[25]. Sản phẩm của công ty được chính phủ nhà nước, các trường học và một số doanh nghiệp trong nước sử dụng. Các sản phẩm của công ty bao gồm các CSM và các dịch vụ liên quan đến trang web.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Phần_mềm_tự_do_nguồn_mở http://mysql.com/news-and-events/sun-to-acquire-my... http://perens.com/works/articles/State8Feb2008.htm... http://socializedsoftware.com/2008/05/08/the-curse... http://www.groklaw.net/articlebasic.php?story=2012... https://vanbanphapluat.co/quyet-dinh-235-qd-ttg-du... https://www.cnet.com/news/microsoft-raps-open-sour... https://www.computerworld.com/article/2504709/orac... https://books.google.com/books?id=4Wgmey4obagC&pg=... https://books.google.com/books?id=KDX0BwAAQBAJ&pg=... https://books.google.com/books?id=hSBrPSYgjI4C&pg=...